Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định soạn xong năm Gia Long thứ năm(1806) ghi về đường trạm dinh Bình Hòa (năm 1808 đổi đơn vị hành chính “ dinh” thành “ trấn”và năm 1832 đổi đơn vị hành chính “trấn” thành “tỉnh”), phần trạm Hòa Do (sách này chỉ có phần phiên dịch và phần ghi chữ Hán , phiên âm): “…chí Ba Ngòi kiều, thuộc Vĩnh Xương huyện, Hạ tổng , Tân Lập thôn. Đệ Nhất Ngòi kiều ,kiều trường bát thập cửu tầm, thử ngòi hàm thủy triều tịch, triều trướng thủy thâm phỏng nhị tầm, triều lạc thâm tam tứ xích… ;chí Đệ Nhị Ngòi kiều, kiều trường ngũ thập tầm, thử kiều hàm thủy triều tịch…kỳ lộ tịnh tế sa , tây hữu Tiền Cai cơ Khoa Đăng hầu lăng mộ; chí Đệ Tam Ngòi kiều, kiều trường lục thập thất tầm, thử kiều hàm thủy triều tịch… Thử xứ hữu câu tương liên, cố danh Ba Ngòi kiều” ( Đến cầu Ba Ngòi, thuộc thôn Tân Lập, tổng Hạ huyện Vĩnh Xương. Cầu Ngòi Nhất (cầu Trà Long – TG) dài 89 tầm, nước ở đây luôn luôn mặn, khi triều dâng nước sâu chừng 2 tầm, triều xuống sâu chừng 3-4 thước…Đến cầu Ngòi Nhì (cầu Suối Giữa – TG), cầu dài 50 tầm , nước ở đây luôn luôn mặn, đường cái đi ở đây toàn cát mịn, ở phía tây của đường đi có lăng mộ của Tiền Cai cơ Khoa Đăng hầu. Đến cầu Ngòi Ba ( cầu Suối Hinh- TG), cầu dài 67 tầm, nước ở đây luôn luôn mặn… là nơi mà ba cái ngòi liền nhau, nên có tên là cầu Ba Ngòi).
Ba Ngòi là tên theo chữ Nôm ,còn nếu đọc theo âm Hán – Việt là Tam Độc. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “ Ngòi” có nghĩa là : “ đường nước chảy tự nhiên, thông với sông hoặc đầm, hồ”
Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu thì “ Độc” có nghĩa là cái ngòi; “ Câu” có nghĩa là cái ngòi (rãnh), ngòi nước qua các cánh đồng
Qua đoạn văn dịch trên ta chú ý giữa cầu Ngòi Nhì và cầu Ngòi Ba thì: “ ở phía tây của đường đi có lăng mộ của Tiền Cai cơ Khoa Đăng hầu”